
TẢN MẠN ĐÔI DÒNG
CHUYỆN CHIM CÚT
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục-đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đem hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Thỉnh thoảng tôi vẫn có thói quen vào thăm các trang web để tìm đọc những tin tức về sáng tác văn nghệ. Hôm ấy khi đang chăm chú lướt qua những tiết mục, bỗng nhiên mắt tôi bị dừng lại bởi tựa đề của một bài Tản-văn vỏn vẹn có ba chữ: “Vua Chim Cút”(1). Tôi chú ý đến câu truyện dưới đây chắc hẳn một phần cũng nhờ vào cái tên nghe rất vui và ngộ nghĩnh, bởi vì trong khi còn mênh mông, vô số những danh mục, tác phẩm nổi tiếng khác, rải rác trên hằng hà sa số trên các trang web, mà “Vua Chim Cút” lại đến với tôi đúng là một thú vị tình cờ. Ðôi khi tôi vẫn hay tự hỏi, nếu đem số lượng mênh mông sách vở kia, đem so với phần thời gian còn lại hiếm hoi sau những sinh hoạt thường nhật, thì thời giờ của một người bình thường thích dành cho vài sở thích giản dị như đọc sách... phỏng còn được là bao! Bài tản-văn cực ngắn đến vào lúc dạo tháng Sáu năm nay, giữa những băn khoăn đôi lúc tưởng như vô cớ, mà cũng rất thường tình như nguyên văn truyện kể rằng:
Họ Trương mấy lần được làm sếp của mấy cơ quan, chẳng hiểu tại sao, cứ mỗi lần đến cơ quan mới, rất thích kể cho cấp dưới nghe về câu chuyện nuôi chim cút lần đầu của mình.
Một năm nọ, họ Trương mang về nhà, lồng chim 100 con để nuôi, hi vọng nhờ nó có thể phát tài. Trên báo nói, trứng chim cút rất giàu dinh dưỡng, còn được gọi là nhân sâm động vật, thịt chim cút lại mềm, thường là món ăn ở các quán ăn trên phố, không lo đường tiêu thụ. Nhưng chim cút lại khó nuôi, nên phải cẩn thận trong thức ăn và kĩ thuật nuôi chim. Họ Trương không tin lời bàn ra tán vào, cho rằng cũng chỉ như nuôi gà mà thôi.
Họ Trương đem thả 100 con chim cút nhỏ vào một cái lồng to, ở dưới lót bông, trên đục lỗ thông hơi. Ban ngày thì đem chim ra phơi nắng, đêm xuống thì cho vào lồng một bóng đèn nhỏ để giữ ánh sáng, trước lúc đi ngủ, lại cho đầy đủ nước và rau. Trong lòng chỉ nghĩ một điều, bọn chim cút nhỏ sẽ lớn dần.
Nhưng những khó chịu cũng kéo đến. Mỗi đêm xuống, tiếng “lích chích lích chích” không ngừng, lại “lạch xạch lạch xạch” tiếng đập cánh vào lồng, tiếng động làm cho cả nhà của họ Trương không sao ngủ được. Họ Trương bò dậy ra xem, thấy phần lớn đàn chim không biết vì sao, đang đánh lẫn nhau, tao giẫm mày, mày trèo tao, tao ngậm đầu của mày, mày mổ vào mắt của tao, máu đỏ ướt lồng trông rất thảm thương. Họ Trương rất đau lòng, hiểu được một điều: bọn gầy với bọn khỏe, phải phân ra riêng mới có thể ổn. Bèn đem bọn yếu và bị thương nhốt vào một lồng, bọn khỏe mạnh nhốt vào một lồng.
Nhưng cảnh thái bình cũng không được lâu, mấy hôm sau, tiếng “lích chích lạch xạch” lại nổi lên, còn mạnh hơn cũ. Người họ Trương mở lồng chim khỏe, thấy chúng đang giương cánh giơ chân, có đến già nửa số chim đầy vết mổ bị thương rớm máu, có con mắt cũng đỏ lòm, có con cánh gãy xệ xuống bên hông; con được thì vô cùng ngạo nghễ, trong con mắt đen của chúng, đầy bụng tự tin của ông chủ, phảng phất ánh sáng huy hoàng của chiến thắng. Họ Trương lại tách bọn yếu bỏ vào một cái lồng có nắp, kì quái là vẫn không được yên, mấy thằng to hơn lại ra oai, đáng thương là bọn nhỏ lại thêm các vết mới, mà bọn thắng tuy trên đầu đầy sẹo, thế mà vẫn nghênh ngang chí chiến đấu. Màn đêm buông xuống, trong bốn chiếc lồng lại đánh nhau, ghi thêm những thương vong to lớn mới. Trời sáng, họ Trương đem xác những con chết có khi cho người khác ăn, có khi đem vứt xuống sông thành vật phù sinh trôi nổi, có con lại được chôn trong bụng chó, mèo. Vì thế, họ Trương lại hiểu thêm một điều: Trong mạnh vẫn có người cao thủ, yếu ớt chỉ chờ bị diệt vong. Bèn nghĩ một cách, lấy lồng nhỏ để thay cho lồng to, lấy nồi to chuyển thành bếp bé, đem chia lũ 60 con chim thành các hạng, theo số đó mà lấy bìa để chia lồng ra thành 30 ngăn, hai con một ngăn, cho chúng theo phép “cộng hòa tự trị”, xem lũ súc sinh nhỏ bé ấy đánh nhau kiểu gì? Quả là được một đêm vô sự, cả nhà họ Trương được ngủ yên. Sáng dậy, muốn chúc mừng sự thắng lợi của kế sách “cộng hòa tự trị”, định khao chúng chút thức ăn tươi. Nào ngờ vừa mở nắp lồng, kinh hoàng đờ người, các ngăn đều con chết con bị thương, xác kẻ chết thì đầu đã cứng đờ, con còn sống thì tinh thần bạc nhược, chỉ nằm thoi thóp, thảo nào một đêm chẳng có tiếng đánh nhau. Họ Trương hối hận vô cùng. Ðúng lúc hối hận khôn nguôi đó, bỗng nghe tiếng “chích chích, phành phạch” lại nổi lên. Họ Trương trong lòng rất vui sướng, nghe tiếng đập mạnh thế, chắc là con chim vua, bèn hết sức vui mừng nâng niu “Vua chim cút” trên tay ngắm nghía.
Ngắm đi ngắm lại, họ Trương bỗng nghĩ đến lúc đầu nuôi chim cút, chợt hiểu: Chim cút là loài chim thích đánh nhau, đúng là rất khó nuôi. Trương bèn mắng rằng: “Tất cả đều chết, giữ mày lại phỏng có ích gì?!”
Lời mắng của Trương chưa dứt, “Vua chim Cút” đã lao vèo đập lên hòn đá xanh ngoài cửa, ô hô thương thay, hồn lìa khỏi xác.
Thành ra, thế mới biết không chỉ riêng trong lãnh vực thương-trường, đến việc giới thiệu một sản phẩm, hay các dịch vụ... mới thật sự cần đến những kỹ xảo tinh vi, quảng cáo rầm rộ mà ngay đến những chuyện bình thường như việc đăng tải một tác phẩm văn-học hay một bài tản-mạn văn-chương... thì việc chọn một tựa đề dí dỏm quả đã gây được sự chú ý tò mò không nhỏ nơi người đọc. “Vua Chim Cút” đến với tôi thật tình cờ, rất bình dị và ngắn gọn, dễ đọc và dễ hiểu như một thứ ngụ-ngôn châm biếm, nhẹ nhàng nhưng miên man đánh thức những suy nghĩ, nỗi cảm hoài trong đáy lòng người xa xứ, như được một bà tiên hiền-từ vung nhẹ chiếc đũa thần, reo rắc đôi giây phút khái-cảm, đắp đổi giúp nhìn ngắm lại chính mình rồi tự hỏi đằng sau đôi cánh nhung khép mở ấy của sân khấu cuộc đời hôm nay, có lẽ nào chỉ còn là những thân xác mệt mỏi, rã rời sau khi trút bỏ lớp xiêm-y và bôi đi màu son phấn.
Ðâu đó chắc vẫn cần phải có một tấm lòng, và ai ơi hãy cần vun xới một tấm lòng !
Cũng từ câu truyện nuôi chim cút của nhà họ Trương, lan man ký ức tôi trở về với câu chuyện xứ mình đã hơn mấy mươi năm về trước. Dạo ấy vào những năm đầu tiên vừa đến Nhật Bản, tôi đã sửng sốt khi nghe thiên hạ kể rằng nơi quê tôi mọi người cũng đua nhau đổ xô nuôi chim cút. Chiếc bánh vẽ giả-tưởng đã khiến bao kẻ khóc người cười. Thật đáng tội nghiệp, niềm hy vọng đã chóng vụt bay theo bầy chim cút kia, để lại đằng sau một giấc mơ kinh-doanh đại-phát hão huyền! Cơn sốt chim cút trong thoáng chốc khi ấy, chắc hẳn đã làm mọi người tạm quên đi hình ảnh, trên mái nhà ai, vài con chim bồ câu lẻ bạn, vừa xà xuống, gù gù qua lại trên mảnh đất quê hương còn mất hút bóng dáng hòa bình. Chẳng biết khi ấy, người dân quê tôi đua nhau nuôi giống chim cút kia, có ai phải trải qua những cực nhọc, nhức đầu và đau lòng như cảnh nhà họ Trương không nhỉ? Chỉ mong giống chim cút xứ tôi hiền lành và dễ nuôi chứ không hiếu chiến và bất trị như đám chim cút nhà họ Trương xuất xứ từ Trung Quốc. Bằng không cũng chẳng mấy ai muốn nhắc đến cái kinh nghiệm làm giàu ngờ nghệch ấy mà chỉ biết than vụng tiếc thầm cho những mất mát não lòng. Từ hằng bao đời nay, người dân xứ tôi đã quá quen chịu đựng với những đổi thay mất mát thì có sá chi thua thêm một canh bạc chim cút giữa buổi chợ chiều!
Còn riêng về phần tôi thì làm sao quên được những viên trứng cút trắng muốt, béo ngậy nằm hiền lành ngon mắt trong những chiếc đĩa bầu dục, bên cạnh những tàu cải xanh, phủ dưới lớp nấm đông cô, thơm ngào ngạt của món xào thập cẩm dạo nào. Có ngờ đâu những quả trứng cút trông xinh xắn thế kia mà cũng lắm đa đoan! Có những lần vào chợ, đi ngang qua hàng trứng tôi vẫn thấy những vỉ trứng cút xinh xắn được xếp ngay ngắn trong những cái hộp nhựa con con trong suốt, và không hiểu có phải vì một lý do xa xôi nào đó, những chấm lốm đốm mầu nâu sẫm, trên vỏ những quả trứng cút kia lại hay làm tôi bồi hồi, tưởng nhớ đến Bố tôi những khi người còn sống. Những câu chuyện thường-nhật được nhắc đến trong những bữa cơm gia đình dạo đó, lắm khi thật bình thường, nhưng hình như lúc nào cũng có vẻ muốn bắt đầu bằng những hương vị, những món ngon Hà Nội nơi đất Bắc, những câu chuyện hồng-cốm nơi quê hương ngoài ấy. Bố tôi vẫn thường bảo: “Chuối tiêu trứng cuốc mà ăn với cốm Vòng thì ngon tuyệt!” À thì ra sau này tôi mới biết, cả hai cái loài chim-cút và chim-cuốc kia lại đều cùng chung một họ hàng với giống gà, chẳng thế mà dạo bé còn ở nhà thỉnh thoảng tôi vẫn thường bị nghe câu: Trông gà hóa cuốc, và tôi thì chưa bao giờ thật sự được thưởng thức những món ngon như cốm Vòng, vừa thanh-lịch, vừa quê mùa dân dã ấy. Nhưng hẵng chỉ mới tưởng tượng ra những hôm trời lành lạnh, nắng thu nhè nhẹ chiếu xuống những đốm trứng cuốc, điểm tô trên làn da những quả chuối tiêu vàng nhạt, vừa chín đến, vị ngọt lừ, hòa lẫn với hương vị cốm của làng Vòng, còn ủ hương thơm ngát mùi lá sen mới hái từ Hồ Tây thì còn gì ngon hơn, thanh khiết hơn và thanh-lịch cho bằng. Thế mới biết lạ lùng làm sao, có những điều tưởng chừng như hoàn toàn khác biệt, chẳng mảy may một chút gì liên hệ với nhau, mà chỉ cần một khóe mắt, một giọng cười, hay một hương vị cũng đã đủ sức gợi lại biết bao điều thương nhớ. Và nhiều khi có những điều cả đời chỉ được nghe thoáng qua thôi, chưa bao giờ trông thấy, cũng đã dần dà trở thành những nét đẹp quê hương vĩnh viễn không bao giờ phai mờ trong ký ức qua bao thế hệ. Biết đâu trong cái vòng vây hãm ký-ức mong manh ấy, nỗi hoài niệm khôn nguôi về một quá khứ mơ hồ lại chính là những thành quách vững vàng nhất, che chở cho qua những cơn gió bụi trái mùa. Hơn ba mươi năm xa xứ, có những lúc tưởng như mảnh đất trong tâm tư đã gần như khô cằn, để chỉ còn kịp trông thấy ở chung quanh, sự màu mỡ và sung túc nơi mảnh đất tạm-dung. Thế mà sao, đôi khi tình cờ, chỉ nhờ vào một chút hình ảnh, một vài âm thanh gợi nhớ cũng đủ biến thành một cơn lốc xoáy, mang theo làm rơi vãi dăm ba hạt cải ngồng, làm tâm hồn tôi bỗng nhiên dội lên những xao xuyến, quay quắt như những luống cải vàng muốn rộ nở hoa? Thì ra sau bao nhiêu mùa mưa nắng ấy, những luống đất cày trong tâm tưởng, cứ ngỡ đã bị chai đá quên lãng, thật sự lại được nâng niu ấp ủ và âm thầm đang được hồi sinh. Thì cứ thảng như mới đây thôi, chỉ tình cờ đọc một bài tản-văn nói về chim cút, mà tâm tư đã chợt nhớ đến bao chuyện buồn vui kim cổ. Chỉ trông thấy những đốm nâu lốm đốm trên làn da trứng cút mà bao hình ảnh thân yêu, liên hệ gần xa lãng đãng đã hiện về. Tất cả quyện lẫn vào tâm sự kẻ xa quê hương, bỗng trở về gắn liền thắm thiết với bao kỷ niệm đầu đời nơi cố-quốc, hiện về như những bóng ma trùng hợp khó ngờ. Hỏi ai mà không cảm thấy lòng bâng khuâng và thấm thía khi chợt nhớ đến đôi vần thơ cũ:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia (2)
hay cảm thông với nỗi đau mất nước của người thiên cổ:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục-đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đem hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ (3)
Còn xa hơn thế nữa, câu truyện nhà họ Trương nuôi chim cút thật sự đã làm tôi bồi hồi suy nghĩ và không khỏi liên tưởng đến bạn bè xưa cũ, những người bạn đã một thời cùng tự hào, mang chung chút nghĩa đồng-môn nơi xứ sở du-học Phù Tang, chẳng khác chi bầy 100 con chim cút nhà họ Trương, cùng mang trong tim, tình thâm nghĩa nặng, bọc trứng trăm con, thế mà giờ đây ai nấy như từng cụm mây rời rạc, lạc bầy an-cư mỗi xứ. Có những cánh chim theo nhau, đã gẫy cánh đường bay, chỉ kịp vội để lại trên nền trời cao xanh ngắt đôi dấu tích, như những lời phân-ưu vội vàng từ bạn bè trên trang web Exryu (4).
Hoài bão tuổi thanh xuân, vá sông lấp biển, cứ thu nhỏ dần theo năm tháng mà sao cõi thiên-đường mù quá khứ, vẫn chập chờn như những bóng ma! Hỏi ai giờ đây mà trong lòng không mừng vui cho được, khi nghĩ đến mỗi lần anh em từ khắp bốn phương trời, hẹn nhau mừng vui cùng tụ-hội, mà phải chăng vì đường xa quá mỏi, nên đường đi dù chưa tới mà cứ thêm trắc trở bội phần!
Trở về thư phòng, trông lên giá sách, còn Lá Thư Ngỏ của nhóm chủ trương tờ Ðặc San năm nay đang nhắc nhở gọi mời.
Nhủ thầm: Sẽ phải viết một cái gì cho chủ đề:
“Cúi đầu nhớ cố hương.”
PHÙNG QUÂN
Hàng Gió
Mùa thu 2004
Chú thích:
(1) Vua Chim Cút, nguyên tác của Sinh-Hiểu-Thanh. Nguyễn-Văn-Nguyên dịch từ nguyên bản tiếng Trung, trích trong tập “Thế giới hoa văn Vi hình tiểu thuyết song niên tuyển 2000-2001”, Nhà xuất bản Văn Nghệ Thượng Hải - 2002.
© 2004 Talawas. Chân thành xin phép và tri ân trang nhà Talawas về bản dịch Vua Chim Cút, được đăng lại nguyên văn trong bài viết “Tản Mạn Đôi Dòng, Chuyện Chim Cút” của Phùng Quân trong Ðặc San Cựu Sinh Viên Du Học Nhật Bản vùng Nam California, niên khóa 2004-2005.
(2) Qua Ðèo Ngang, bà Huyện Thanh Quan.
(3) Cuốc kêu cảm hứng, Nguyễn Khuyến.
Thục-đế: do điển tích cũ cho rằng vua nước Thục mất nước, lúc chết hóa cuốc, nhớ nước đêm đêm lại kêu ròng rã “Thục quốc! Thục quốc!”
(4) Exryu: tên gọi thân mật giữa Cựu Sinh Viên Du Học Nhật Bản. (Ex-: tiếp đầu ngữ trong Anh ngữ có nghĩa là Cựu; Ryu: gọi tắt danh từ ryu-gaku-sei trong Nhật Ngữ, với nguyên âm Hán-Việt: lưu-học-sinh, nguyên nghĩa: sinh viên du học.
Create Your Own Website With Webador