
TONSOKU, SUNDAE và KIMCHI
Đầu năm 2000 ba hãng điện tử IBM, Sony, và Toshiba ký kết hợp đồng thiết kế một chip vi tính cho máy chơi game thế hệ mới tên Playstation 3, sau khi IBM đã cho thành công dự án Gigahertz Processor với kỹ thuật chế tạo chip vi mạch dựa trên một phát minh mới từ đại học MIT, "SOI" hay "Silicon On Insulation" do một tiến sĩ người gốc Đài Loan tên L. Su đề xướng sử dụng cho những chip vi mạch thế hệ tương lai.
(Chú thích : SOI giúp giảm thiểu năng lượng tiêu dùng khi hoạt động so với những kỹ thuật khác đương thời.)
Không đi sâu vào chi tiết dự án Playstation nhưng đây là một cá cược có sự rủi ro rất cao mà Sony, hãng dẫn đầu trong lãnh vực máy chơi game thời bấy giờ, bỏ vốn gần nửa tỉ đô la và chọn IBM cho việc lập trình thiết kế thay cho Toshiba, hãng đã giúp Sony thành công cho những máy chơi game của thế hệ trước.
- Sony cung cấp cơ cấu kiến trúc của Playstation
- Toshiba cung cấp một phần nhân lực cho thiết kế và thu thập kỹ thuật mang về Nhật sau khi dự án hoàn tất
- IBM lo hạ tầng cơ sở, vi kiến trúc, tuyển dụng khối nhân sự lớn cho thiết kế và chế tạo con chip vi tính ở Mỹ.
Bắt đầu dự án chỉ có "le que" vài mống.
Phía IBM có một ông VP, cô thư ký, và 3 kỹ sư chuyên môn cao về lập trình thiết kế, một anh kiến trúc sư bên Sony, và một anh kỹ sư chuyên môn về máy chơi game của Toshiba.
Ngoài những buổi họp dài lê thê, thời gian còn lại trong ngày phải chia nhau lo phỏng vấn tìm nhân viên mới và họp nhau quyết định nhận vào hay không, tùy theo nhu cầu và khả năng cần thiết. Mặc dù công việc bận bịu nhưng chiều thứ Tư mỗi tuần cả nhóm vẫn ra quán "C-Hunt" gần nơi làm việc lai rai thư giản.
Theo thời gian nhân-sự cho dự án tăng lên. Công việc bận bịu hơn nhưng vẫn giữ thói quen không bỏ cơ hội thư giãn chiều thứ Tư.
Một hôm ngồi cạnh anh kỹ sư của hãng Toshiba tên Kim, mới tới Austin.
Hỏi thăm thì anh cho biết là người gốc Đại Hàn nhưng sinh ra và lớn lên ở Tokyo, khu Okubo Nakano nơi sinh hoạt của nhiều hàng quán của cộng đồng Đại hàn di cư sang Nhật sau khi chiến tranh Triều Tiên chấm dứt năm 1945.
Tui cho anh biết là người Việt Nam sang Nhật du học nên tụi tui có sự đồng cảm, tâm sự vui vẻ với khả năng tiếng Anh của Kim và tiếng Nhật, những gì tui còn nhớ bập bẹ được. Từ ngày đó Kim tìm cách ngồi cùng bàn nhậu với tui khi có cơ hội.
Một hôm đang lai rai với cái cánh gà chiên giòn còn nóng hổi trên tay thì cô thư ký dẫn một người phụ nữ dáng Á châu, mới tới Austin.
- Tony... đây là Chiaki (Thiên Thu) đại diện cho Toshiba, cô thư ký nói.
Ngồi cạnh anh Kim nói chuyện xã giao một hồi thì biết cô sang làm việc với tư cách là người điều hành nhân sự cho Toshiba vì dự trù sẽ có hơn 50 kỹ sư sang cộng tác cho dự án.
Qua cung cách cư xử của Chiaki, ăn nói rất nhỏ nhẹ, lấy tay che miệng khi cười làm tui bồi hồi nhớ lại những kỹ niệm ngày xưa mà dường như đã bị quên lãng từ hơn một phần tư thế kỷ, từ ngày tui quyết định bỏ lại những người thân bay sang Pháp xin tị-nạn sau biến cố năm 1975.
Tối đêm hôm đó tui trằn trọc ngủ không ngon giấc với những kỹ niệm xưa ùa về không ngừng nghỉ...
. . . Ngày đó sau khi tới Tokyo một thời gian ngắn, Sempai L.v. Phụng đứng ra bảo lãnh mướn cho tui căn apato 6 chiếu gần nhà ga Shin Okubo, sống chung với dokyu sei T.v. Thắng (Meijo).
Sáng xách cặp lên Yamate-sen đi tới ga Shibuya, xuống đi bộ tới trường học tiếng Nhựt. Học xong thì đi về ga Okubo thay vì về nhà trọ. Tụi tui đi vô Kokusai tập dợt đá banh, chơi tennis, hay chơi bóng rổ cho tới chiều tối. Tắm ké và ăn tối ở shokudo mặc dù không phải học Nhật ngữ và không cư trú ở Kokusai.
Thời đó ăn uống ở shokudo giá cả phải chăng cho sinh viên du học, khoảng 200 Yen thôi.
Khi thèm nước mắm thì đi ăn bún chả giò, cơm gà xả ớt ... ở quán Bà Định và còn có bonus được ngắm cô Cầm khi cô mang thức ăn ra bàn với câu "Xin cho em gởi", hay ái nữ Kyoko của bác Định. Ngắm thôi nghe chớ không ai dám nghĩ ngợi xa vời vì đã có một anh Sempai được ông Định ưu ái.
Thèm thịt gà thì ra quán Yakitori ở ngã tẻ vô Kokusai. Mặc sức mà lựa gà xỏ lụi nướng. Thịt nạc gà, da gà, gan gà, tim gà... đều xỏ lụi nướng với nước sốt chấm ngon ngọt chan cơm trắng, ăn bá cháy con bò chét luôn mà giá cả rất phải chăng. Cứ mỗi 3 tháng khi Sanwa Ginko báo tin tiền chuyển ngân đã tới, tụi tui hay kéo nhau ăn "Rosu" ở cái quán nằm dưới hầm trên đại lộ Okubo Dori, giữa ga Okubo và Shin Okubo.
"Rosu" là món thịt bò nướng vĩ nên hơi mắc tiền. Khi tài chánh eo hẹp mà muốn ăn đồ Đại hàn thì cũng chui xuống hầm ăn "Tonsoku", món giò heo luộc chắm sốt chua chua ngòn ngọt giống như "cơm mẻ" quê nhà. Đệm thêm món "Sundae", cơm bỏ vô tô cho thêm dồi huyết, chan nước súp nấu với xương bò hay xương heo.
Mấy món ăn lúc còn ớ Nhật cứ lãng vãng trong đầu rồi nhớ đến những người bạn thân thiết ngày xưa cho tới khi tui ngủ lúc nào không hay ....
Trung tâm thiết kế Playstation càng ngày càng đông nhân viên và những "Happy hour" kéo dài hơn.
Một hôm anh Kim, Chiaki, và tui ngồi cùng bàn nhậu với một số kỹ sư Nhật. Chiaki nói:
- Tony san ... nagai aida gaikoku ni sunde iru ne ... nan no kokugo hanasemasu ka?
(Anh Tony .. sống ở ngoại quốc lâu năm ... anh có thể nói những tiếng nước nào?)
Chú thích: "go" trong chữ "kokugo" có nghĩa là ngữ hay ngôn ngữ
- Taksusan yo, tui tự tin trả lời. (nhiều à nghen)
- Tatoeba? Chiaki hỏi. (cho thí dụ đi)
- Betonamu go, Nihon go, France go, Ei go, tui trả lời.
(Tiếng Việt, tiếng Nhật, tiếng Pháp, tiếng Anh)
- Sugoi ne, mọi người nhìn tui "Oh" lên. (Tuyệt vời)
- Raku go mo dekiru yo, vui quá tui bồi thêm
(Còn thêm Lạc ngữ hay chuyện đùa, tiếu lâm nữa)
Họ lại ồ ồ lên nhìn tui há miệng cười, trong khi Chiaki cũng cười nhưng lấy tay che miệng.
- Mo ikko yo, tui nói. (còn nữa mà)
Không nói ngay, tui xin phép đi rửa tay trong khi mọi người xôn xao nhìn tui chờ đợi.
Trở lại tui móc cái trứng gà trong túi ra cho họ xem và nói:
- Tama go desu .... (cái trứng ... có chữ go nhưng không có nghĩa là ngôn ngữ ở đây ... tui chơi chữ thôi).
Họ ôm bụng, há miệng cười to làm cả quán ai cũng nhôn nhốn lại gần xem chuyện gì đã xảy ra.
Sẵn trớn vui quá tui cho biết có chuyện vui đúng nghĩa với "rakugo" hay tiếu-lâm, nhưng không liên quan tới ngôn ngữ.
Tui nói tiếp luôn:
- Kim san wa Chiaki san no soba ni tatte, Aki no Kim Chi narimasu. (Anh Kim mà đứng cạnh cô Chiaki thành ra Kim Chi mùa Thu"
Ai cũng cười to trong khi cô Chiaki có vẻ hơi ngường ngượng nhưng cũng che miệng cười theo.
Có vài mẫu chuyện và những khoảnh khắc vui vẻ sau nầy được tác giả cuốn sách "Chiến tranh của những máy chơi game" đề cập đến, khi hãng Nintendo và Microsoft cũng tìm đến IBM ký hợp đồng thiết kế cho Handheld Nintendo và Xbox 360.
Biết tui thích "Rosu" một hôm anh Kim mời tui đi ăn ở một quán tên Nhật nhưng chủ quán và đầu bếp là người gốc Đại Hàn. Menu có Kalbi, Bulgogi, Yakitori... nói chung là thịt bò nướng BBQ. Ông chủ kiêm đầu bếp ra tiếp chuyện khi nghe tụi tui pha tiếng Nhật trong khi ăn nhậu. Ông cho biết cũng đã từng sinh sống ở Tokyo cho tới ngày Samsung mở hãng chế tạo chip vi tính ở Austin, ông được hãng lo cho sang Mỹ và vào làm bếp chính cho cafeteria của hãng.
Ông cười khi nghe tui nhắc tới "Tonsoku" và "Sundae". Ông nói cả hai món nầy người Mỹ không biết ăn nên không có trong menu, nhưng ông có thể làm được giông giống thôi cho tui thưởng thức nếu có hẹn vài ngày trước cho ông có thời gian chuẩn bị.
Thế là tuần sau Kim và tui trở lại như đã hứa.
Chính tay ông chủ mang ra một dĩa móng giò heo luộc chín và chén sốt sền sệt có màu trắng như cơm mẻ. Không cưỡng lại được sự thèm thuồng vì đã lâu không ăn, tay vói chụp cái móng giò heo chấm sốt, miệng nói "Itadakimasu" (Xin được thưởng thức nghe).
Khi đưa cái móng giò lên tới miệng thì nghe mùi thơm "Bún Bò Huế" của Việt Nam ta.
Chưa kịp hỏi thì ông chủ phân trần:
- Bây giờ mua giò heo không có. Hầu hết người Á châu và nhiều nhất là người Việt Nam đặt mua hết làm giò thủ, nấu món gì giống Udon (bánh canh giò heo), hay Bún bò Huế.
Ore (tui) phải đi tiệm phở Hà Nội mua 2 tô Bún bò Huế với "extra" móng giò để riêng làm cho giống "Tonsoku" thôi.
Ăn cũng ngon miệng nên Kim với tui làm hết dĩa với 6 cái móng giò luôn.
Tiếp theo ông chủ mang ra 2 tô "Sundae" và nói:
- Kiếm tiệm bán dồi huyết ở Austin không ra nên tui nấu món tương tự với thịt bò "Kalbi gukbap" thế vô cho anh thưởng thức.
Anh Kim và tui rối rít cám ơn ông chủ khi từ giã vì ông không chịu lấy tiền, chỉ nhận tips cho nhân viên phục vụ thôi.
Khi dự án gần hoàn tất tui được bổ nhiệm qua làm việc với Microsoft, thiết kế chip vi tính cho game Xbox 360. Vì vấn đề cạnh tranh nghề nghiệp và bảo mật nên tui không còn dự Happy hour hay liên lạc thường xuyên với nhân viên người Nhật nữa. Tui gặp lại họ khi IBM, Sony, và Toshiba tổ chức một dạ tiệc hoành tráng ăn mừng sự thành công dự án Playstation 3.
Kim và Chiaki đã đính hôn, sau mấy năm tìm hiểu trong khi làm việc chung ở Austin. Tui nói đùa:
- Ima Chiaki san wa mainichi Kimcki o taberu no desu ne ...
(Bây giờ cô Chiaki ăn kimchi mỗi ngày rồi ...)
Một tay nắm tay anh Kim, một tay che miệng cười, không trả lời thẳng câu trêu ghẹo của tui, cô nói:
- Tony san itsu mo jodan ga arimasu ne ....
(Anh Tony lúc nào cũng đùa giởn được ...)
THANH ANH
Chú thích:
Tonsoku, Sundae, và Kim chi : Móng giò heo, Cháo huyết, và Dưa cải chua Đại hàn
Create Your Own Website With Webador