Tranh Bùi-Xuân-Phái

VỀ HAI NGƯỜI BẠN

Vũ-Đăng-Khuê

Sáng nay, ngủ dậy tôi nhận được mail từ một người bạn, anh viết:

“Tuổi trẻ sống hướng về tương-lai, và tuổi mình bây giờ chỉ còn lại quá khứ... Những Văn-Thơ mà PQ cố gom góp lại và giới thiệu trên trang Web Hội Ngộ gần đây, có khuynh hướng nghiêng về kỷ-niệm và ký-ức một thời...”

Nhớ đến Khuê một cột trụ trong những ngày Văn nghệ Sinh Viên thời ấy mà không mời được Khuê viết lại một loạt bài kể lại những tâm tình và rung động thời ấy sẽ là một thiếu sót lớn lao của PQ. Tôi vẫn nhớ những ngày được Khuê tập cho hát Trường Làng Tôi, hợp ca với 3 giọng nữ...

Viết cho Khuê mà tôi lại nhớ đến Ngô Chí Dũng, Dũng ở cùng phòng với tôi trong những năm ở Nhật. Mỗi người một phận đời, Khuê nhỉ?

 

Nước trong im mơ màng
Trăng treo cao lồng lộng
Bóng nhạn chìm mênh mang.
Ngàn năm không giữ gió
Hàng tre đứng âm thầm
Hồ trong không lưu bóng
Nhạn qua rồi bặt tăm.


(Thơ Huyền-Không, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Mãn Giác, Exryu 1960...)



Vẫn biết:

 

Hồ trong kia không lưu bóng, nhưng Khu vườn Thơ-Văn Hội-Ngộ này chắc chắn sẽ lưu lại dấu chân, những tâm-hồn đồng-điệu, hồn nhiên chút kỷ-niệm, giữa bạn bè cùng tâm-hướng, dẫu biết mai kia... cát xóa một ngày!”


.   .   .   .   .

Người viết mail cho tôi là Phùng Quân, một đàn anh trên tôi 2 lớp. Là một người điềm đạm, nói năng nhỏ nhẹ. Anh cười nhiều hơn nói. Anh làm thơ rất hay, rất “tới”. Có nhiều bài nghe “lịm” cả người.

Đọc lại bài thơ Hoài-Niệm Một Đông-Kinh 1975 anh viết dạo “nọ”, dạo những ngày hoang mang hoảng loạn cuối tháng 4/75  đã đẩy những suy nghĩ của mình về những cái quá khứ không thể cắt bỏ và cái hiện tại lưu vong không thể phủ nhận, hai thực tại đó quấn lấy nhau và vây bổ những suy nghĩ, những cái nhìn.

 

 

 

HOÀI-NIỆM MỘT ĐÔNG-KINH 1975

Dạo Ba-mươi-tháng-Tư những đêm dài mất ngủ,

Bạn bè xớn xác những niềm riêng.

Bỗng chốc nghe hư-vô bọt bèo,

Ta hận kiếp chim hồng trong cũi nhỏ.

Nhớ chuyện cũ thuở Đông-Du,

Mới ngày nào còn tươi trong sách sử.

Cơn ác mộng trở về,

Tô lại hãi hùng chung.

Nhớ con dốc quanh co,

Khuôn viên Tòa Đại Sứ lạnh lùng.

Hôm ấy cánh cổng to, giờ đóng chặt!

Ngoài kia đám đông, bạn bè chen chúc.

Cố chuyền qua song sắt

Những thông-hành ký vội:

ALL COUNTRIES ! ! !

? ? ? ? ?

Đi chốn nào đây

Một cõi mông lung?

Những cặp tình-nhân,

Mới hôm qua hãy còn phong kín,

Từ mai ta sẽ gọi vợ chồng.

Ta đau lòng gặp lại em bên kia dốc,

Ánh mắt u buồn như muốn ngỏ:

“Thân gái dặm trường, anh có hiểu cho không?”

.   .   .   .   .

 

Cuối tháng 2 năm 1975, tôi về thăm nhà sau 4 năm rời nước. Saigon, vẫn còn những con đường với hai hàng cây xanh rợp bóng mát, những con đường lầy lội “khi mùa mưa về cũng lem nhem bước trên ngõ trơn…” (Nguyễn Đức Quang), vẫn còn cái mùi quen thuộc của cái chợ cá Trần Quốc Toản,  nhịp sống vẫn nhộn nhịp dù tin dữ tới tấp bay về.  Giữa tháng 3/1975 Ban Mê Thuột và lần lượt các tỉnh miền Trung thất thủ.


.   .   .   .   .

 

Ở với gia đình gần một tháng, tôi trở lại Nhật ngày 28/3 và cũng là lúc tôi xa hẳn cội nguồn trên một chuyến bay tơi tả của Hàng Không Việt Nam sau khi rước đồng bào di tản lánh nạn từ miền Trung. Lúc đó. Hội Sinh Viên Việt Nam Tại Nhật đang phát động chương trình “cứu giúp những đồng bào tị nạn miền Trung”. Là một ủy viên của Ban Chấp Hành Hội, tụi tôi rủ nhau xách thùng đi khắp đường phố quyên tiền cứu trợ, tôi “mưu toan” tổ chức một chương trình văn nghệ với qui mô lớn hơn với đối tượng là khán giả Nhật giống như trước đó một năm (1974) tụi tôi đã tổ chức thành công, trong lúc TV đập vào mắt đầy những hình ảnh chạy nạn của người di tản, chen chúc cố gắng leo lên những chuyến tàu sắp rời bến, xô đẩy trực thăng xuống biển…


Rồi đến một ngày....

30/4/75 tôi đang ở nhà cùng với 2 người bạn, khi thấy TV chạy hàng chữ tốc báo: “サイゴン政府無条件降伏 “Sài gòn đầu hàng vô điều kiện”. Dù biết là chuyện sẽ đến khi nghe tin dữ từ quê nhà suốt cả tháng 4, nhưng cũng bàng hoàng khi biết chắc chắn 100% “Saigon đã rơi vào tay Bắc Quân”. Chỉ trao qua đổi lại với 2 ông bạn cùng phòng vài câu ngắn ngủi, tôi vẫn phải sách cặp đến trường, vì hôm đó bắt buộc phải có mặt vào giờ chuyên môn của một ông thầy khó tính, chỉ 3 lần vắng mặt là coi như rớt môn đó, sang năm phải lấy lại mà tôi đã vắng mặt 2 lần.  

Học xong giờ học, tôi về thẳng nơi làm baito gặp nhiều bạn Việt Nam, Qua cái màn hình, nơi tụ tập nhóm chùi và rửa tòa nhà Departo này, hình ảnh chiếc xe tăng ủi cửa và tiến vào Dinh Độc Lập đã làm tôi “chóng mặt” muốn khóc. Xong việc 3 tiếng baito, tôi buồn bã về nhà thì thấy chẳng còn ai, 2 ông kia đi đâu mất.  

Nhưng cũng tối hôm đó, từ những con dốc đường dẫn đến sứ quán Việt Nam Cộng Hòa và ngay trước cổng sứ quán, trong khuôn viên, quanh tòa đại sứ có một cảnh hỗn loạn chưa từng thấy, khu vực Yoyogi vốn dĩ yên lặng này trở thành căng thẳng, “bất thường” hơn ngày thường vì những tiếng hoan hô, đả đảo, tiếng hú còi liên tục của xe cảnh sát, những cái đèn đỏ trên xe cảnh sát chớp chớp liên tục và nhiều xe “機動隊” (Kidotai - Cơ Động Đội - Đội dẹp biểu tình) đã kéo đến vây kín khu vực. Trong tòa nhà thì các nhân viên sứ quán cố thủ, ngoài khuôn viên thì có nhóm thiên tả cùng Nhật Cộng, phía ngoài cổng thì anh em từ Takadanobaba (cư xá Đông Du), Okubo (cư xá Kokusai)…. kéo đến tiếp viện vì nghe tin: “Tụi nó vào chiếm tòa đại sứ”. Cảnh sát đã can thiệp tức khắc, xông ngay vào giữa để cố tránh một trận “đổ máu” sẽ xảy ra với nhiều hậu quả không lường trước. 

    

Sáng mấy hôm sau, tòa đại sứ đóng kín cửa, tôi thấy rất nhiều sinh viên từ khắp nơi trên nước Nhật đổ về để gia hạn thông hành mới. Bên trong có cả nhóm sinh viên tôi quen mặt đã cùng với các nhân viên tòa đại sứ thiêu hủy tài liệu, phụ giúp trong việc đóng dấu gia hạn sổ thông hành và tất cả được ký vào ngày 30/4/1975 vì qua ngày này thì Sổ Thông Hành của VNCH trở thành vô giá trị:  

 “For all countries, except communist countries” 

hoặc làm các giấy tờ chứng nhận vợ chồng cho những cặp tình-nhân, 

“Mới hôm qua hãy còn phong kín, 

Từ mai ta sẽ gọi vợ chồng."

Qua khe cổng tòa đại sứ, hàng chồng passport được chuyển vào, và hàng loạt passport đưa ra, hôm đó tôi thấy có cả nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ với một sấp thông hành vì lúc đó, đoàn văn nghệ của nhạc sĩ đang lưu diễn tại Nhật. 

 

.   .   .   .   .

Những ngày sau đó là những ngày vô nghĩa nhất trong cuộc đời, cùng với vài tên bạn thâu đêm suốt sáng, nói chuyện lung tung trên trời dưới đất.  

Có những tên bạn ngày trước thì chung một bàn, chung một mâm, chung ý tưởng, chung một sân khấu, cùng nắm tay trong các đêm lửa trại hè… thì nay đã có những e dè, xa cách. Những tranh cãi xảy ra liên tu bất tận. Vì muốn tránh những lời qua tiếng lại giữa những cảnh bạn thân hôm trước, ngoảnh mặt hôm sau, tôi chỉ can ngăn: 

- Mỗi thằng đều có sự lựa chọn tùy theo hoàn cảnh, thằng nào cũng lớn cả, tụi bay muốn nghĩ sao thì nghĩ, muốn chọn gì thì chọn. Tạm gác mọi tranh cãi ở đây, uống cái đã! 

Nhưng uống vào thì cũng đâu vào đấy, sự thể vẫn chả có gì thay đổi, những đốp chát, tranh qua luận lại theo suốt tôi thời gian. Những chán nản, bất an vẫn còn nguyên vẹn. 


.   .   .   .   .

 

sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi 

những hào hùng uất hận gối lên nhau 

kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới : 

ta làm gì cho hết nửa đời sau?“ 

(Thơ Cao Tần)  

Ngoài ra, một vấn nạn lớn mà tôi phải đối diện là chuyện  “Ở” hay “Đi”. “Ở” có nghĩa là trụ lại Nhật, “Đi” có nghĩa là tìm đường sang xứ khác. Nếu nhìn về quá khứ thì Nhật Bản là nước đã không mặn mà với những kẻ “ngoại lai” vô tổ quốc, nên khuynh hướng ra “Đi” cũng là chuyện thường tình. Chỉ một tuần sau ngày Saigon thất thủ, Pháp quốc đã là nơi đầu tiên dang rộng vòng tay đón nhận những tên đã mất lối quay về. Một số bạn bè thân tình đã rời Nhật sang Pháp. Thêm một nơi có thể đến nữa là Hoa Kỳ, lúc đó chuyện nhập cảnh cũng rất dễ dàng. Chỉ cần vài lời chứng và có người bảo lãnh là được cấp visa ngay. Tôi, một người không thể sống nếu bên cạnh không có  bạn bè nên suốt thời gian đó, tôi cứ bị lôi kéo và dùng dằng không thể dứt khoát trước chuyện “Đi” hay “Ở” vì bạn bè thân tình cũng lũ lượt rủ nhau đi sang vùng đất mới.

Giữa những hoang mang cùng cực đó thì Tôi đã gặp Ngô Chí Dũng.

 

Anh hơn tôi một tuổi, học trên tôi một lớp, anh có khuôn mặt trắng hồng, dáng vẻ của một cậu công tử xuất thân từ một gia đình sung túc và nề nếp. Khoảng 1972, anh là một thành viên của nhóm thực hiện tờ “Tin Việt Nam”, tờ báo duy nhất của nhóm sinh viên quốc gia thời đó. Sau đó, anh là Trưởng Ban Báo Chí của Hội Sinh Viên Việt Nam tại Nhật Bản. Tôi là trưởng ban văn nghệ, một thành viên của Hội nhưng sau anh một nhiệm kỳ nên sự giao tiếp với anh chỉ ở mức độ chào hỏi, xã giao bình thường. Với những lần tiếp xúc ít ỏi thì dưới mắt tôi: anh là một công tử bột chăm chỉ thích chuyện chính trị. Những gì tôi biết về anh chỉ có thế. Sự giao tình với anh cũng chỉ ở mức bình thường nếu không có biến cố 30/4/75.

Là một người can đảm đi ngược dòng, Ngô Chí Dũng tình nguyện đứng ra nhận trách nhiệm thành lập “Ủy Ban Tranh Đấu Cho Tự Do Người Việt Tại Nhật” với mục đích: tìm sự an tâm cho người muốn “Ở” hay tìm bãi đáp an toàn cho những người muốn “Đi”, ban đầu chỉ là như thế nhưng tầm hoạt động dần dần mở rộng hơn thành cuộc đấu tranh cho dân Việt. Ngày 1/11/1975 tại Tokyo, một tổ chức có tên là “Nhóm Người Việt Lưu Vong” (tiền thân là Ủy Ban Tranh Đấu Cho Người Việt Tại Nhật như đã nói ở trên) đã ra đời và sau đó thì “Nhóm Người Việt Lưu Vong” được chính thức đổi thành “Tổ Chức Người Việt Tự Do”.

Anh rủ tôi phụ giúp làm bản tin, tôi đồng ý ngay vì đang muốn làm một việc gì đó cho vơi bớt, lấp đầy những thì giờ nhàm chán, hơn nữa tôi đánh máy được, tôi check những lỗi chính tả trong những bài viết quá dễ dàng khiến tôi trở thành một phụ tá cho Ngô Chí Dũng.


Thân tình hơn một chút, qua nhiều trao đổi, Ngô Chí Dũng đã thuyết phục và khuyên tôi cùng anh nhập cuộc, anh giải thích thêm cho tôi về ý nghĩa đấu tranh. Cuối cùng, tôi quyết định Ở lại, trở thành một thành viên của một Tổ Chức Đấu Tranh đầu tiên của Người Việt hải ngoại. Cuộc đời tôi đã hoàn toàn thay đổi và chuyển sang hướng khác. Từ tay cầm đàn, chuyên “đứng trên sân khấu nghêu ngao những câu hát, tổ chức các chương trình văn nghệ giải trí” tôi đã trở thành tay cầm bút ghi ghi chép chép. Ban đầu thú thật là rất khó tập trung vì tất cả những công việc đối với tôi hoàn toàn mới mẻ, nhưng  từ từ thì quen vì đầu óc lúc nào cũng quanh quẩn ước mơ không chỉ của riêng tôi mà của cả đồng bào tôi. 

Những kỷ niệm khó quên

Khi đã “kết” nhau, tôi và anh đã có nhiều dịp trao đổi hơn về mọi mặt. Nói anh sinh ra để “làm chính trị” cũng không ngoa, vì bất cứ chuyện gì từ vui hay buồn khi nói chuyện với anh, cũng “bị” anh kéo về chuyện chính trị hay là chuyện Việt Nam. Xin kể một câu chuyện về anh mà tôi chứng kiến. Một hôm, tôi cùng anh và một số bạn đến thăm đồng bào tại một trại tị nạn để hỏi thăm về tình hình Việt Nam, nói chuyện được một lúc thì trời đổ mưa tầm tã, một cô trong nhóm “than thở”: “Thấy mưa nhớ Việt Nam quá anh Dũng ạ”, anh cười cười và đáp ngay: “Nói đến mưa mới nhớ đến chuyện ở bên Ý, kỳ rồi đảng cầm quyền đã mất ghế vì đã không có đối sách kịp thời khi mưa lớn khiến có vài người thiệt mạng” (đại khái tôi nhớ là như vậy).  Mắt cô gái tròn xoe tỏ vẻ ngạc nhiên, có lẽ là vì cô tưởng câu trả lời của anh phải mang một ý nghĩ chia sẻ thông thường.

Và cũng từ những tháng những ngày đó Anh em chúng tôi đã bung ra đi khắp nơi để gặp gỡ, trao đổi, vận động cho cuộc đấu tranh hầu thực hiện ước mơ của người dân Việt.

Khoảng năm 1983, anh Dũng đã vào rừng chiến đấu và… năm 1992, tôi được thông báo là anh đã hy sinh.

 

Nguyễn Thái Học, tháng 12/1927, khi còn là sinh viên 27 tuổi đã là lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng can cường đứng lên chống giặc Pháp. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị lên đoạn đầu đài vào tháng 6 năm 1930 khi được 30 tuổi.

Ngô Chí Dũng, 24 tuổi (1975), lãnh đạo Tổ Chức Người Việt Tự Do, 30 tuổi (1981) về nước chiến đấu. Mất tích (1992).

Tôi, hãnh diện được đứng chung hàng ngũ với Anh, những nối dài của tuổi trẻ dấn thân trong lịch sử cứu nước.

Hôm nay ngồi ghi lại những giòng tâm sự về anh, tôi nhớ anh vô cùng. Không biết thân xác anh bây giờ phiêu bạt nơi đâu, nhưng tôi vẫn tin rằng anh vẫn còn hiện diện đâu đây bên cạnh để hỗ trợ đồng bào anh, bè bạn anh trong trận chiến đấu cuối cùng này để mãi mãi chấm dứt khổ đau trên quê hương yêu dấu.

 
Cám ơn Phùng Quân, người bạn ở cùng phòng với NCD  đã nhắc nhở khiến tôi có những dòng chữ này.

VŨ ĐĂNG KHUÊ

Tháng 11/2024

 

Create Your Own Website With Webador