CHÂU VỀ HỢP-PHỐ  (*)

 

Chú thích:

Bài thơ TÌNH YÊU XỨ NGƯỜI là một sáng tác của Trịnh-Khanh vào mùa đông 1974 tại Tokyo. Tác-giả đã thất lạc bài thơ ấy và có ý tìm kiếm bấy lâu nay. PQ nhớ rõ bài thơ này vì chính mình đã tự tay đánh máy, trình bày và tra dấu bằng tay trước khi cho báo lên khuôn. Biết là có mang sang Mỹ được bài thơ ấy, nhưng vì lâu ngày nên không rõ cất giữ ở đâu. Nay tình cờ tìm được bài thơ  trong tờ Đặc san GIÓ MỚI (**), thật vui mừng quá ...

Vậy Trịnh-Khanh ngày xưa hay là Phạm-Thế-Định bây giờ... thì Tác-giả của bài thơ này, nay đã gặp lại được cố-nhân.

Chúc mừng "Năm mươi năm 1974-2024 Châu về Hợp-Phố".

Phùng-Quân

 

 

(*) Châu về Hợp-Phố - vốn là một điển cố gốc Hán, bắt nguồn từ câu “châu hoàn Hợp-Phố” hoặc “Hợp-Phố châu hoàn” (hoàn: trở về). Điển cố này gắn với địa danh Hợp-Phố, một quận xưa của đất Giao Châu, là nơi sản xuất ngọc trai nổi tiếng (châu: ngọc trai, còn gọi là trân châu, về sau chỉ ngọc nói chung). Theo sách Hậu Hán thư, thời Hậu Hán, có tên quan thái thú tham ác ép dân phải đi lấy ngọc châu rất ngặt, vì thế, châu bỏ đi nơi khác hết. Mạnh Thường lên thay, ông bãi bỏ các quy định hà khắc của tên thái thú cũ, cho dân chúng tự do khai thác, sản xuất, chế tác châu. Nhờ đó, châu lại trở về quê nhà Hợp Phố. Từ câu chuyện trên, người xưa dùng điển “châu hoàn Hợp Phố” để chỉ ý nghĩa “vật trở về chốn cũ” hoặc “nhận lại đồ vật của mình”. Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã sử dụng một cách linh hoạt thành ngữ này ở câu “Thoa này bắt được hư không/ Biết đâu Hợp-Phố mà mong châu về”. Đây là những lời của chàng Kim nói với nàng Kiều ở bên kia tường, với ý “thoa này vô tình nhặt được, không biết chủ là ai để mong trả lại”. (Nguồn: Internet)

 

(**)  GIÓ MỚI - Đặc san HỘI SINH-VIÊN VIỆT-NAM TẠI NHẬT-BẢN 1974.